Hát then, là một nếp văn hóa phổ biến, một loại dân ca tín ngưỡng của cộng đồng người dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Tày, Nùng. Hát then, là hành trình của bà then, lên thiên đường để cầu xin Ngọc hoàng xin, cầu cho gia chủ một việc gì đó được tốt hơn, hay hơn; cầu phúc, cầu lành….. Những năm gần đây, hát then, đã được sân khấu hóa làm cho then không còn dừng ở tín ngưỡng, mà có thêm nhiều hình thức thể hiện, phổ cập rộng rãi hơn.
Hát then phổ biến tại các tỉnh biên giới phía bắc như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Hiện nay, do dòng di cư của một bộ phân người dân tộc thiểu số, hát then, đã xuất hiện them nhiều vùng khác như Tây nguyên, và ngay cả các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Ở Trung quốc, người dân tộc Choang cũng có hát then ở một số tỉnh như: Liễu Châu, Quế Lâm, Hạ Châu, Nam Ninh, Lai Tân, Quý Cảng và Ngô Châu
Nhạc cụ, đạo cụ: Cây đàn tính, xúc sắc ( hay còn gọi là ngựa ) là đạo cụ chính. Ngoài ra, còn có mũ có số dây thể hiện bậc hàm của bà then. Trang phục của bà then thì tùy từng vùng miền, cũng có thể khác nhau.
Then cổ:
Hát then, mỗi làn điệu then thì sắp xếp các đoạn có thể khác nhau, có thể hiểu là đi theo những đường khác nhau, nhưng đều tuân theo một bài bản và kết thúc đều có kết quả giống nhau.
Hát then, đều qua cùng những chỗ đường đi: lúc thì lên rừng núi, non thượng ngàn, khi thì lên trời, thường là vạn lấy hồn lấy vía siêu lạc ở các chốn về, hay săn bắt bắn lấy những con thú trên rừng về để giải hạn, khao tổ tiên, khao mẫu sinh hay mẹ sinh (mẫu ban lộc sinh đẻ); đến đoạn cuối cùng là qua hải hay còn gọi là khảm hải: là cửa ải cuối cùng, vượt qua đây là đến được những nơi cần đến như: cửa mẹ sinh, vua cha ngọc hoàng hay một số nơi quan trọng khác…; Cuối cùng hồi lại binh mã trở về bàn sơn hay bàn thản gốc pháp, khao binh rồi tổ tiên gia chủ là xong việc.
Then với pháp binh đều trải qua những chặng quan trọng sau:
- – Sắp xếp binh mã chuẩn bị lên đường xế lễ.
- – Xuất pháp để điều khiển binh lính.
- – Khao binh.
- – Kính thầy kính pháp chứng kiến con hiệu đệ tử xê pang.
- – Xê lễ đến thổ công rồi vào cửa thổ công xét (thổ công nhập vào đồng và phán cho gia chủ biết về đất đai vận hạn)
- – Xê lễ đến bếp (táo quân) rồi vào cửa xét, cửa này có thể một số loại then không cần vào.
- – Xê lễ đẳm cha (tổ tiên gia chủ) rồi vào cửa xét.
- – Xê lễ tiếp lên nàng sliên (cửa thánh/ cửa tiên. Cửa này ăn chay hoặc ăn mặn tùy vào luật lệ nhà gia chủ và đặc biệt cửa này chỉ có ở người Nùng; người Tày không có, nếu có thì được gọi là cửa tướng cửa pật (then) theo cách gọi của người Tày.
- – Xê lễ qua nàng sliên rồi lên rừng pắt mèng pắt ngoạn (bắt một loại công trùng gần giống với ruồi về để cởi lời thề câu tội và cầu bình an cho trẻ con trong nhà)
- – Đón vía ở cây lạng rồi đến cây vạt trên trời về.
- – Lên chợ Đinh Trung trên trời để vui chơi và mua đồ còn thiếu, mua tài lộc về cho gia chủ.
- – Xê lễ đến chỗ mượn gậy yêu tinh để đi lên rừng săn hươu nai.
- – Xê lễ qua đoạn cầu khắc cầu hai (chỗ dành cho những bọn làm then hay làm thầy không kiêng kị được bị chết oan ở đây để dọn đường dọn xá cho các binh mã xê lễ)
- – Khao binh mã rồi lên rừng săn hươu nai (sau khi săn được hươu nai, sai lính xuống cửa sông cửa hải để rửa sạch rồi làm thịt và sắp cỗ, 30 cỗ tạp và 40 cỗ chay).
- – Khảm hải xê lễ qua biển qua hải để tống sao hạn xuống sông và vạn lấy vía về, nếu là then Nùng thì còn có thêm đoạn hát sli mượt mà để vạn lấy hồn vía về.
- – Xê lễ đến nơi cần đến và giao lễ cho các thần, vậy là nhiệm vụ của nhà thầy nhà thánh, binh mã đã trọn vẹn, thong thả hồi lại binh mã trở về.
Vậy là cuộc hành trình dài lên rừng xuống núi, lên trời xuống biển đã hoàn thành. Theo quan niệm, tiếng hát then thần kì đến mức người đang ốm đau chỉ nghe thấy thôi coi như thấy nhẹ lại người; then có nhiều tác dụng: chữa bệnh, giải hạn, cầu tài cầu lộc.
Then sân khấu hóa:
Là các làn điệu then có thể dựa trên nền then cổ hoặc không, do các nghệ nhân nghệ sỹ, chuyển soạn, sáng tác đối tượng được cảm thụ, thưởng thức sẽ rộng rãi, dễ hiểu hơn.
Mỗi vùng, làn điệu then lại có những nét độc đáo riêng:
- Then Cao Bằng dìu dặt tha thiết
- Then Lạng Sơn tươi vui, rộn ràng
- Then Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận
- Then Hà Giang nhấn nhá từng tiếng một
- Then Bắc Kạn như chuyện kể thầm thì
Hát then đã trở thành di sản văn hóa Phi vật thể
Lúc 15h23 ngày 12/12/2019 giờ địa phương (tức 3h23 ngày 13/12/2019 giờ Việt Nam), tại Phiên họp thứ 14 Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 14 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại Bogotá, Colombia, di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
.
